(QK7 Online) - Hôm nay, tròn 85 năm ngày nổ ra cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940 – 23/11/2020) - một trong những bản hùng ca bi tráng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Nhân dân Nam Bộ nói riêng và Nhân dân cả nước nói chung. Khởi nghĩa Nam Kỳ đi vào lịch sử dân tộc với ý nghĩa to lớn là thắng lợi của ý chí kiên cường, bất khuất, lòng dũng cảm, sự hy sinh của đồng bào, các chiến sĩ cộng sản, của lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quật khởi của Nhân dân ta.
Các chiến sĩ từng tham gia khời nghĩa Nam Kỳ. Ảnh: Tư liệu
Tháng 11/1939, Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Hóc Môn - Bà Điểm, Sài Gòn đề ra chủ trương “Cách mạng giải phóng dân tộc” bằng hình thức “bạo động” để giành chính quyền. Đầu năm 1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do đồng chí Võ Văn Tần làm Bí thư đã vạch ra đề cương chuẩn bị bạo động, đưa ra các hoạt động tự phát vào phong trào chống thực dân Pháp và tay sai dưới sự lãnh đạo của Đảng, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1940 nhận định: Điều kiện ở Nam Kỳ và cả nước chưa chín muồi, vì vậy đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa, sau đó Trung ương phái đồng chí Phan Đăng Lưu quay trở về để hoãn cuộc khởi nghĩa. Sau khi về đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu bị địch bắt. Trong thời điểm đó Xứ ủy Nam Kỳ đã phát lệnh khởi nghĩa khắp nơi không thể thu hồi.
Đêm 22 rạng sáng ngày 23/11/1940, cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có. Khắp vùng nông thôn Nam bộ rung chuyển, cụ thể: Từ Biên Hòa đến Cà Mau, 18 tỉnh nổi dậy cướp chính quyền, ở Mỹ Tho, 54 trong số 56 xã được giải phóng. Tại Hóc Môn (Gia Định) cách Sài Gòn 20km, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen - Xứ ủy viên, du kích vây đồn, chặn đánh địch tiếp viện ở Cầu Bông, giết tên ác ôn chánh xứ tỉnh Tây Ninh và một số lính, thu 15 súng rồi kéo lên Truông Mít (Tây Ninh). Ở Cần Giuộc, Bến Lức, Long An đội du kích của đồng chí Nguyễn Thị Bảy đã làm cho bọn địch kinh sợ phải gọi chị là "Bà Chúa Đỏ". Ở Vũng Liêm (Vĩnh Long), đội du kích và quần chúng chiếm đồn địch trong 3 ngày, làm chủ quận lị. Ở Mỹ Tho, hàng ngàn du kích do Bí thư tỉnh ủy chỉ huy bức rút 2 đồn, phá hoại gần 10 km đường bộ, 14 cầu, ngăn 6 con sông, bóc đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Ngày 14/12 năm 1940, địch phải dùng thủy, lục, không quân tiến công Mỹ Tho nhưng mãi đến ngày 14/1/1941 chúng mới chiếm lại được và đẩy du kích vào Đồng Tháp Mười…
Nhân dân Nam Bộ hăng hái tham gia khởi nghĩa. Ảnh: Tư liệu
Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp, tiến hành khủng bố trắng, dìm cuộc khởi nghĩa vào trong biển máu. Hệ thống tổ chức của Đảng từ cấp Xứ đến cơ sở bị phá vỡ gần hết. Bí thư Xứ ủy bị địch bắt, 4 liên tỉnh ủy, 14 tỉnh ủy, ban cán sự bị xóa hoặc tê liệt. Toàn Nam Kỳ bị mất đến 90% cán bộ cách mạng, tạm thời mất liên lạc với Trung ương. Hai tháng sau khi phần lớn Xứ ủy viên bị bắt, các Xứ ủy viên còn lại tái lập Xứ ủy.
Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra và thất bại song không làm mất đi ý nghĩa lớn lao của nó. Cuộc khởi nghĩa đã góp phần làm sáng tỏ tính chính xác và đúng đắn của Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, tích cực chuẩn bị lực lượng chuyển sang đấu tranh vũ trang giành lấy chính quyền cách mạng về tay Nhân dân. Đồng thời, Khởi nghĩa Nam Kỳ đã chứng minh rằng muốn lật đổ ách thống trị của thực dân đế quốc để giành độc lập tự do cho dân tộc, nhất thiết phải bằng khởi nghĩa cách mạng, bạo lực vũ trang của toàn dân, chứ không chỉ bằng đấu tranh chính trị đơn thuần được.
Khởi nghĩa Nam kỳ cũng cho thấy một thực tiễn là muốn khởi nghĩa thắng lợi phải xây dựng lực lượng một cách toàn diện, cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó, lực lượng chính trị là nòng cốt và lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích. Chính vì thế, sau khi tổng kết kinh nghiệm, Đảng ta cũng đã có những bước đi sáng suốt nhằm xây dựng một lực lượng cách mạng hùng hậu, mạnh mẽ, sẵn sàng chờ đón thời cơ.
Khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc nổi dậy kế tục và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc ta, chiến đấu dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là một trang sử oanh liệt và đau thương của Nhân dân Nam Bộ, những người đã đứng lên chấp nhận hi sinh quyết giành lại độc lập cho dân tộc dưới ngọn cờ của những người cộng sản. Khởi nghĩa Nam Kỳ là biểu trưng cho tầm vóc to lớn và uy tín sâu rộng của Đảng đối với nhân dân Nam Kỳ trong suốt quá trình vận động cách mạng, từ cấp Xứ, đến các tỉnh ủy, các chi bộ và từng đảng viên, thể hiện được tinh thần cách mạng tiến công của Đảng, tinh thần quật khởi của dân tộc ta. Tinh thần chiến đấu anh dũng của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ sống mãi trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta.
Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ tuy bộc lộ những hạn chế như trong lựa chọn thời cơ, xây dựng lực lượng… song cũng chính những vấn đề này đã trở thành những bài học kinh nghiệm của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng. Khởi nghĩa Nam kỳ là trang sử oanh liệt của miền Nam “đi trước về sau” trên suốt chặng đường cách mạng của đất nước. Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ là hiệu kèn giải phóng hùng dũng báo hiệu thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.