Lời hiệu triệu nước non: “Về kỷ nguyên vươn mình, phát triển hùng cường, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam” - những cảm nghĩ từ một nhà khoa học
Tốc độ:1x
(QK7 Online) - Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, vị thế và uy tín quốc tế không ngừng được củng cố, tăng cường. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã mang lại sự thay đổi và phát triển mới. Bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức to lớn từ chính quá trình phát triển, nguy cơ tụt hậu bởi bẫy thu nhập trung bình và nhiều nguy cơ khác đặt ra trong bối cảnh thế giới thay đổi mau lẹ, phức tạp và cuộc cách mạng 4.0 với công nghệ có vai trò tiên quyết hay đổi mô thức và cách thức phát triển các quốc gia trong hội nhập mới. Việt Nam cần có một chiến lược mới với tầm thời đại để đưa dân tộc ta bứt phá, phát triển. Chủ trương lớn chuẩn bị mọi điều kiện để đưa Việt Nam bước vào “Kỷ nguyên vươn mình phát triển mới của dân tộc Việt Nam” được Đảng ta và Tổng Bí thư Tô Lâm khởi xướng là một quyết định có tính lịch sử phù hợp với thời đại, thể hiện ý Đảng, lòng dân – là lời hiệu triệu nước non: “về kỷ nguyên vươn mình, phát triển hùng cường, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam”.
Tổng bí thư Tô Lâm. Nguồn: Báo Nhân Dân
Sự tất yếu cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Trong bối cảnh mới hiện nay, Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn quan trọng quyết định vận mệnh của lịch sử phát triển: Một mặt là thời cơ vàng của hội nhập và cách mạng công nghiệp lần thứ 4; Mặt khác là những thách thức lớn của toàn cầu hóa, của sự phức tạp, bất định của tình hình quốc tế và nguy cơ tụt hậu xa so với các quốc gia trên thế giới đang ngày càng hiện hữu. Sau nửa thế kỷ giải phóng miền Nam, thống nhất giang sơn và gần 4 thập kỷ đổi mới, dân tộc Việt Nam đã khẳng định được vị thế, uy tín của một quốc gia có bề dầy truyền thống, năng động sáng tạo và có khát vọng vươn lên mạnh mẽ.
Những thành tựu và kết quả đạt được của Việt Nam trong giai đoạn phát triển vừa qua:
- Kinh tế tăng trưởng mạnh, đời sống nhân dân được nâng cao: Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kém phát triển trở thành một quốc gia đang phát triển năng động, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 6-7%/ năm trong nhiều năm liên tiếp. Thu NSNN giai đoạn 2021-2025 ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần giai đoạn trước đó và vượt mục tiêu đề ra. Quy mô thương mại tăng cao qua từng năm, đạt kỷ lục khoảng 850 tỷ USD năm 2025, thuộc nhóm 20 quốc gia dẫn đầu thế giới; cán cân thương mại duy trì xuất siêu lớn. Các nguồn lực cho đầu tư phát triển được huy động và sử dụng có hiệu quả hơn; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 17,3 triệu tỷ đồng, bằng 33% GDP, đạt mục tiêu đề ra (32%-34%); trong đó đầu tư công đạt 3,4 triệu tỷ đồng, tăng 55% so với nhiệm kỳ trước, đã khắc phục tình trạng dàn trải trong đầu tư công, bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả hơn; chất lượng thu hút FDI tiếp tục được cải thiện. Tăng trưởng có chuyển biến tích cực; đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47% (mục tiêu đề ra là khoảng 45%). Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tích cực. Các tổ chức quốc tế đánh giá tích cực về công tác lãnh đạo điều hành, kết quả và triển vọng của kinh tế Việt Nam. Với quy mô nền kinh tế năm 2025 ước đạt trên 510 tỷ USD Việt Nam thuộc nhóm top 32 thế giới. Thu nhập bình quân đầu người tang hơn 20 lần so với năm 1986; Tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu từ (hơn 70% đầu những năm 1990) xuống còn (dưới 3% hiện nay). Đây là những thành quả to lớn thể hiện sự nỗ lực không ngừng nghỉ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được.
Kinh tế Việt Nam ngày càng khởi sắc. Nguồn: Báo Nhân dân
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng. Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và xuất khẩu lớn trong khu vực, đặc biệt về dệt may, điện tử, nông sản, và công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia hơn 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, trong đó có CPTPP, EVFTA, RCEP. Môi trường đầu tư – kinh doanh ngày càng cải thiện, thu hút hàng trăm tỷ USD vốn FDI. Tạo ra sự đa dạng nguồn lực để thúc đẩy sự phát triển đất nước trong thời gian vừa qua.
- Phát triển văn hóa – xã hội, giáo dục, khoa học và công nghệ: Giáo dục phổ cập được mở rộng; Việt Nam nằm trong nhóm có chất lượng giáo dục phổ thông cao ở châu Á. Với hệ thống y tế, an sinh xã hội được củng cố, tuổi thọ trung bình tăng. Hoạt động khoa học – công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo được đẩy mạnh, tạo động lực mới cho phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
- Xây dựng hệ thống chính trị - xã hội ổn định hơn, hoàn thiện thể chế pháp lý đầy đủ. Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đang được thực hiện quyết liệt tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ hoạt động của tổ chức bộ máy của Nhà nước và toàn hệ thống chính trị hướng đến tinh gọn, gần dân, hiệu quả hơn.
Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại. Nguồn: Báo Quân đội Nhân dân
- Quốc phòng – an ninh vững mạnh, đối ngoại rộng mở. Việt Nam giữ vững ổn định chính trị, độc lập – chủ quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Bên cạnh đó, một trong những ghi nhận quốc tế thể hiện uy tín quốc tế không ngừng nâng cao; Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của Liên Hợp Quốc, ASEAN và nhiều tổ chức quốc tế. Chính vì vậy, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là “điểm sáng về phát triển” và “quốc gia yêu chuộng hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững.”
Như vậy, 40 năm đổi mới đã đưa Việt Nam “từ đói nghèo, lạc hậu vươn lên thành quốc gia có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng, có khát vọng phát triển hùng cường.” Đây là nền tảng và động lực để dân tộc ta tự tin bước vào giai đoạn phát triển mới.
Những khó khăn, thách thức Việt Nam phải đối mặt trong bối cảnh hiện nay.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong bối cảnh phát triển mới, Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức:
- Thách thức về mô hình tăng trưởng và chất lượng nội lực. Việt Nam hiện có nền kinh tế mở cao: tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ chiếm hơn 80% GDP trong những năm gần đây. Tuy nhiên có thể thấy rằng, mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào độ lớn vốn đầu tư (bao gồm FDI) và lao động giá rẻ, chưa chuyển dịch mạnh mẽ sang nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam chỉ khoảng 0,42% GDP (năm 2021) — thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (~4,91%), Singapore (~2,16%) và thậm chí thấp hơn mức trung bình của các nước thu nhập trung bình [3]. Nếu cứ duy trì mô hình hiện tại, Việt Nam có thể tăng GDP nhưng không theo kịp về nâng cao năng lực sản xuất, giá trị gia tăng nội địa, dẫn đến bị đẩy vào ngõ cụt — đúng bản chất của “bẫy thu nhập trung bình”.
- Nguy cơ “bẫy thu nhập trung bình” và trì trệ thu nhập đầu người. Theo báo cáo, ngưỡng thu nhập để được coi là nước thu nhập cao được xác định là khoảng 13.845 USD/người/năm hoặc hơn. Trong khi đó, hiện nay, Việt Nam hiện mới chỉ đạt thu nhập bình quân đầu người khoảng 4.700 USD (cuối năm 2024) — nằm trong nhóm thu nhập trung bình thấp/vừa. Nhiều phân tích đã chỉ ra rằng nếu tăng trưởng lâu dài ở mức ~5-6%/năm, sẽ mất khoảng 30 năm để Việt Nam đạt đến mức thu nhập của các nước phát triển — nghĩa là thời gian chờ rất dài và có nguy cơ bị bỏ lại phía sau. Do vậy, nếu Việt Nam không thay đổi nhanh về mô hình tăng trưởng, năng suất lao động, tận dụng cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số — thì nguy cơ “mắc kẹt” ở mức thu nhập trung bình, chậm tiến lên cao hơn là rất lớn.
- Thách thức về cơ sở hạ tầng công nghệ và môi trường toàn cầu. Tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ đang ngày càng khó khăn khi: dân số trong độ tuổi lao động bắt đầu chững lại, chi phí lao động tăng, và hiệu suất lao động so với các nước trong khu vực vẫn thấp. Bên cạnh đó, Trình độ lao động, kỹ năng sáng tạo, năng lực nghiên cứu – phát triển vẫn chưa tương xứng với yêu cầu của nền kinh tế số và chuỗi giá trị toàn cầu. Chính vì vậy, nếu không nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực – chuyển từ lao động giá rẻ sang lao động có chất lượng cao thì không xa, Việt Nam sẽ đánh mất ưu thế cạnh tranh và bị các đối thủ trong khu vực và trên thế giới vượt qua.
- Thách thức về yếu tố con người, lao động và dân số. Việc đầu tư vào công nghệ cao, chuyển đổi số, công nghiệp hỗ trợ, logistics hiện đại vẫn chưa đáp ứng nhu cầu để nâng cao chuỗi giá trị. Đồng thời, các thách thức biến đổi khí hậu, rủi ro thiên nhiên và áp lực môi trường ngày càng tăng — theo báo cáo của World Bank, nếu không có giải pháp thích ứng, GDP Việt Nam có thể bị ảnh hưởng giảm tới 12,5% vào năm 2050. Cạnh tranh toàn cầu, chuỗi cung ứng dịch chuyển, rào cản thương mại tăng lên (như việc xuất khẩu Việt Nam chịu sức ép) cũng khiến Việt Nam dễ bị tổn thương nếu không tạo ra được “nội lực” đủ mạnh. Trường hợp thay đổi chính sách thuế quan của Hoa Kỳ trong thời gian vừa qua cho thấy những rủi ro này ngày càng hiện hữu.
- Bên cạnh đó, nhiều khoảng cách giàu nghèo, sự phát triển kinh tế - xã hội chênh lệch giữa các địa phương, vùng miền đang ngày càng rõ rệt. Những tiềm ẩn bất ổn xã hội cục bộ ở một vài địa phương, thành phần dân cư vẫn hiện hữu đòi hỏi phải có một cơ chế, nguồn lực đủ mạnh để thực hiện tốt hơn việc cân đối phát triển các vùng, địa phương, đảm bảo hài hòa lợi ích và cơ hội phát triển cho người dân.
- Bộ máy cồng kềnh và chồng chéo,tốn kém lãng phí nguồn lực, thâm hụt ngân sách vào chi thường xuyên gây cản trở sự phát triển. Hệ thống hành chính 4 cấp với nhiều đầu mối chồng chéo, trùng lắp chức năng dẫn đến tình trạng quản mọi thứ nhưng không ai chịu trách nhiệm cuối cùng diễn ra khá phổ biến. Tâm lý an phận, an toàn với cơ chế làm việc suốt đời, số lượng nhân lực công vụ đông, tốn kém ngân sách nhà nước nhưng lương thấp đã làm trì trệ toàn bộ hệ thống, nhiều địa phương thu không đủ chi cho hoạt động bộ máy, chưa tính đến đầu tư, phát triển. Đây là những dấu hiệu thách thức lớn mà bấy lâu nay Đảng ta đã xác định nhưng chưa thực hiện được một cách triệt để.
Nhãn quan sáng suốt và tinh thần quyết liệt của Đảng và người đứng đầu Đảng ta – Tổng bí thư Tô Lâm trong việc khởi xướng kỷ nguyên vươn mình, phát triển hùng cường, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam
Như phân tích ở trên, thời khắc lịch sử tính tất yếu của Việt Nam đã đến. Đây là thời điểm bản lề của lịch sử dân tộc – khi Việt Nam phải lựa chọn giữa vươn lên bứt phá hay chấp nhận tụt lại phía sau. Những thành tựu của 40 năm đổi mới là nền tảng quý giá, nhưng chặng đường phía trước đầy rẫy những thách thức khốc liệt của kỷ nguyên mới: cạnh tranh công nghệ, biến đổi mô hình phát triển, áp lực năng suất và sáng tạo. Nếu không có bước cải cách mạnh mẽ và tầm nhìn chiến lược, Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng xoáy thu nhập trung bình, đánh mất cơ hội vàng để vươn lên hùng cường.
Lịch sử nhân loại và đặc biệt là lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy một quy luật bất biến: Khi thời thế đạt đến một bước ngoặt, khi đất nước dân tộc đứng trước lằn ranh thịnh vượng hay tụt hậu, thụt lùi thì anh hùng, những người chèo lái con thuyền quốc gia dân tộc xứng tầm xuất hiện. Mỗi thời kỳ, dân tộc đều xuất hiện người đứng mũi chịu sào, kết tinh trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng Việt Nam để dẫn đường cho dân tộc bước qua thử thách. Đó không phải là ngẫu nhiên, mà là sự gặp gỡ giữa “thời thế” và “nhân cách dẫn đường” – giữa yêu cầu khách quan của lịch sử và năng lực chủ quan của con người. Đó là “thời thế chuyển mình” – vừa là cơ hội, vừa là thử thách sinh tử: Nếu nắm bắt đúng, dân tộc sẽ vươn lên hùng cường; nếu lỡ nhịp, có thể bị bỏ lại phía sau. Trong bối cảnh ấy, đất nước cần một người cầm lái đủ bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn, người có thể biến khát vọng thành hành động, biến cơ hội thành sức mạnh.
Lịch sử dân tộc Việt Nam và Đảng đã đặt lên vai Tổng bí thư Tô Lâm, và Tổng Bí thư Tô Lâm đã xuất hiện trong thời khắc như vậy – khi Việt Nam đang tìm kiếm động lực phát triển mới, sau giai đoạn ổn định và đổi mới. Ông không chỉ là nhà lãnh đạo thể hiện được biểu tượng của kỷ luật, kỷ cương và an ninh quốc gia – mà còn là người thể hiện tư duy chiến lược có tầm vóc thời đại về phát triển quốc gia Việt Nam toàn diện. Như vậy, Việt Nam đang ở ngưỡng cửa của một chu kỳ phát triển mới – nơi mọi cơ hội và thách thức đan xen. Thời thế đang đòi hỏi một tầm nhìn dài hơi, một bản lĩnh thép, một ý Đảng, lòng dân đồng thuận. Sự xuất hiện của Tổng Bí thư Tô Lâm – với tư duy “kỷ nguyên vươn mình”, hành động thực chất, hiệu quả và tinh thần cải cách mạnh mẽ – chính là biểu hiện sinh động của khát vọng bứt phá, mong mỏi và tầm nhìn thời đại, Tôi vững tin rằng Tổng bí thư sẽ cùng Đảng, Nhân dân ta chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam thành công, đưa đất nước ta phát triển cường thịnh, hùng cường, đưa Việt Nam sánh ngang với các cường quốc năm châu hiện thực hóa ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong mỏi.
Những nội dung cơ bản của kỷ nguyên vươn mình, phát triển cường thịnh của dân tộc Việt Nam được Tổng bí thư Tô Lâm khởi xướng
Nội dung "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" của Tổng Bí thư Tô Lâm xoay quanh mục tiêu xây dựng một Việt Nam hiện đại, hùng cường, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các nội dung chính bao gồm phát triển kinh tế - xã hội trên mọi lĩnh vực, tận dụng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để bứt phá, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải cách hành chính, đấu tranh phòng chống lãng phí, tham nhũng, và xây dựng một xã hội đoàn kết, lấy dân làm gốc. Các nội dung chính của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc có thể thấy ở các khía cạnh sau:
- Về định hướng phát triển, đưa Việt Nam tiến lên một tầm cao mới, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới. Đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Đây trở thành một mục tiêu quan trọng xuyên suốt trong quá trình đưa nước ta vào kỷ nguyên mới.
- Về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, tất cả vì nhân dân. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu... Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.[8] Việc phát triển song trùng đảm bảo hài hòa kinh tế, xã hội và môi trường gắn với tốc độ nhanh và bền vững là những đòi hỏi đặt ra cần vai trò to lớn của Đảng.
- Về đổi mới phương thức lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và xu thế thời đại mới. Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ, về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng, bên cạnh những kết quả, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn những tồn tại, hạn chế và yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta vượt lên đã trở thành vấn đề cấp thiết, vấn đề sống còn. Cần tập trung thực hiện một số giải pháp chiến lược, thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.[8] Bên cạnh đó, với nhiều công cụ và phương thức lãnh đạo, quản lý tiên tiến, thời đại được đặt ra tạo ra nền tảng số quan trọng đưa quản trị quốc gia dần hiện thực, đồng bộ hóa quản trị toàn diện, hiện đại trên tích hợp trên môi trường số.
- Về tăng cường tính Đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tổng Bí thư nêu rõ quan điểm, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong toàn hệ thống chính trị đảm bảo đúng định hướng, mục tiêu con đường Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn.
- Về cuộc cách mạng tổ chức, bộ máy, thể chế lãnh đạo, quản lý. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, nhất là đối với các cơ quan trung ương là vấn đề đặc biệt hệ trọng, có thể coi đây là một cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy;Đây cũng là vấn đề khoa học tổ chức, rất khó khăn, phức tạp, bởi có nhiều quan điểm, ý kiến với góc nhìn khác nhau. Vì vậy, việc triển khai thực khẩn trương nhưng không nóng vội, cần làm rõ các nguyên tắc để xác định không trùng dẫm chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, các đơn vị khác phối hợp, với phương châm “Trung ương làm gương - Địa phương hưởng ứng”. Đây là một trong những minh chứng cụ thể cho hiệu quả và sự quyết liệt với vai trò của người lãnh đạo tối cao của Đảng trong việc nói đi đôi với làm: “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo vì lợi ích chung cho quốc gia dân tộc” được Tổng bí thư lãnh đạo Đảng, Nhà nước triển khai mạnh mẽ, hiệu quả chưa có tiền lệ trong thời gian vừa qua.
- Về đội ngũ cán bộ và phát huy tiềm năng, nguồn lực con người. Nhấn mạnh một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới, Tổng Bí thư chỉ rõ, đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được; tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số; xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung... Cần đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội của đất nước và phát triển nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Về tận dụng cơ hội của cách mạng công nghệ 4.0. Tổng Bí thư nêu một số giải pháp chủ yếu tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó đặt ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số; khuyến khích phong trào “bình dân học vụ số” để phổ cập xã hội số trong toàn dân. Từ những tiền đề trên, với bước đi cụ thể quyết liệt trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã từng bước thực hiện đồng bộ hóa dữ liệu dân cư và bước đầu ứng dụng hiệu quả trong quản trị hành chính, quản trị quốc gia, đảm bảo an ninh, an toàn trong bối cảnh số.
- Về hoàn thiện thể chế quản trị, đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Chống lãng phí tương đương với tham nhũng, tiêu cực.Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hoàn thiện các quy định xử lý hành vi lãng phí; các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; thể chế trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tạo sự đồng bộ trong chuyển đổi để giảm thiểu lãng phí. Giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án hiệu quả thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn. Những nội dung này góp phần giải phóng nhiều nguồn lực xã hội để tổng lực phát huy cho sự phát triển của Việt Nam.
Với những nội dung khái quát trên cho thấy, những định hướng, tầm nhìn thời đại thể hiện nhãn quan sáng suốt và một tâm, tầm, trí tuệ của người đứng đầu Đảng ta trong bối cảnh chuyển mình của dân tộc, tạo cơ hội, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên phát triển cường thịnh, bền vững.
Những trụ cột - nguồn lực thể chế cần thiết để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới
Để hiện thực hóa các định hướng, mục tiêu, tầm nhìn của Đảng và dân tộc ta trong kỷ nguyên vươn mình phát triển mới, Tổng bí thư Tô Lâm và Đảng ta đã xây dựng, hoàn thiện và ban hành các thể chế căn cốt đảm bảo thực hiện mục tiêu đã xác định. Có thể thấy các thể chế được ban hành và thực hiện trong thời gian vừa qua là các thể chế trụ cột như: Nghị quyết 57, Nghị quyết 59, Nghị quyết 66, Nghị quyết 68, Nghị quyết 71, Nghị quyết 72 và chuẩn bị một số nghị quyết có tính chất tiên phong, tạo thế chế chính sách định hình sự phát triển chiến lược của Việt Nam.
Nghị quyết 57-NQ/TW do Bộ Chính trị ban hành 22/12/2024 — “về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Nghị quyết được Tổng bí thư kí ban hành đầu tiên trong chuỗi các thể chế trụ cột cho phát triển đã thể hiện tầm nhìn và động lực thúc đẩy phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới phải gắn liền với thời đại phát triển dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, kinh tế tri thức và hàm lượng trí tuệ cao. Thể chế được ban hành tạo ra một “”luồng sinh khí” mạnh mẽ lan tỏa trong toàn hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân, toàn xã hội. Nội dung cốt lõi của Nghị quyết tạo ra một thể chế xác định vai trò khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là động lực chính để đất nước phát triển nhanh, bền vững và vươn lên hùng cường. Xác định chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong mọi lĩnh vực từ quản trị nhà nước đến sản xuất, kinh doanh và là nhiệm vụ trọng tâm,cấp bách. Đột phá về cơ chế, chính sách là nền tảng quan trọng tạo ra sự bứt phá, gắn phát triển công nghệ với mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hình thành nền kinh tế số, phát triển doanh nghiệp công nghệ cao. Thực hiện đồng bộ từ trung ương, đến địa phương, từ công tới tư, doanh nghiệp, người dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp và thực thi hiệu quả kỷ nguyên phát triển mới của Việt Nam.
Nghị quyết 59‑NQ/TW của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành ngày 24 tháng 1 năm 2025 về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”. Nghị quyết đã xác định mục tiêu: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện, sâu rộng, của hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần thiết thực xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển nhanh, bền vững”. Đây là thể chế quan trọng giúp định hình chiến lược, chính sách đối ngoại nâng cao vị thế, vai trò khéo léo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Xác định vai trò của Việt Nam như một thành viên chủ động, có trách nhiệm, góp phần xây dựng trật tự quốc tế công bằng, ổn định, phát huy vị thế và ảnh hưởng của đất nước. Bên cạnh đó, tận dụng các xu thế lớn của toàn cầu như kinh tế xanh, công nghệ số, kinh tế sáng tạo,…dể nâng cao chất lượng và tăng khả năng cạnh tranh, hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Đổi mới tư duy, cơ chế, chính sách, thể chế để bứt phá trong hội nhập, không để tụt hậu hay bị động trước biến động khôn lường, mau lẹ của tình hình quốc tế hiện nay để hiện thực hóa mục tiêu phát triển Việt Nam nhanh,bền vững, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, vị thế quốc gia trên trường quốc tế trong kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam.
Nghị quyết 66‑NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 30 tháng 4 năm 2025 về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”. Mục tiêu của Nghị quyết xác định “Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan sau sắp xếp tổ chức bộ máy, tháo gỡ vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, mở đường cho kiến tạo phát triển,”. Nhấn mạnh vai trò của Đảng trong lãnh đạo toàn diện từ việc hoạch định, xây dựng, hoàn thiện, ban hành, tổ chức thực thi pháp luật. Công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải được xác định là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế, xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, minh bạch, khả thi, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Nghị quyết 68‑NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị ban hành về “Phát triển kinh tế tư nhân”. Nghị quyết nêu rõ : “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng” và xác định rõ: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và các chủ trương, đường lối khác của Đảng”. Như vậy, Nghị quyết đã tạo ra trụ cột thể chế quan trọng giúp khai phóng sức sản xuất, xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, gắn phát triển kinh tế tư nhân với khoa học, công nghệ, đối mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo đột phát, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt trong kỷ nguyên mới góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội cho Việt Nam.
Nghị quyết 71/NQ-TW của Bộ Chính trị được ban hành vào ngày 22 tháng 8 năm 2025, về chủ đề "Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo". Nghị quyết xác định mục tiêu “Mở rộng tiếp cận công bằng, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á. Xây dựng mạng lưới trường lớp cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh thuộc mọi đối tượng, vùng miền; Xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học thực sự trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng. Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học đóng vai trò nòng cốt trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của các vùng và địa phương, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu các ngành, lĩnh vực trọng điểm.” Nghị quyết tạo thể chế cụ thể hóa chính sách giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhân tố quyết định vận mệnh dân tộc, và động lực then chốt để phát triển Việt Nam một cách nhanh,bền vững. Tạo cơ chế nguồn lực tài chính bền vững cho giáo dục, mở rộng hội nhập quốc tế về giáo dục, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam nhằm thực hiện thành công kỷ nguyên vươn mình, phát triển của Việt Nam.
Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 9 tháng 9 năm 2025 về “Một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân”. Nghị quyết đã nêu ra: “Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là nền tảng quan trọng nhất cho hạnh phúc của mọi người, cho sự tồn vong của dân tộc và sự phát triển thịnh vượng, bền vững của đất nước. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là mục tiêu, là động lực, là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, giữ vị trí ưu tiên trong các chiến lược, chính sách phát triển; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và mọi người dân; Có chính sách, cơ chế đột phá trong huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân; đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong y tế”.Thể chế giúp xác định việc bảo vệ,chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân là mục tiêu, động lực, nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Từ phòng bệnh, chăm sóc, đến nâng cao thể chế, trí lực, tầm vóc người Việt một cách chủ động. Nghị quyết cũng tạo thể chế huy động mọi nguồn lực của xã hội nhằm nâng cao chất lượng, phát triển hệ thống y tế, xây dựng nền y tế hiện đại, công bằng, hiệu quả phục vụ tốt nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới của Việt Nam.
Với các Nghị quyết có tính trụ cột đã góp phần hoàn thiện thể chế quan trọng trong hiện thực hóa định hướng mục tiêu, tầm nhìn, nội dung của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam do Tổng bí thư Tô Lâm và Đảng ta khởi xướng, vì một Việt Nam phát triển thịnh vượng, hùng cường!
Kết quả bước đầu và những tín hiệu cho thấy một tương lai tươi sáng trong kỷ nguyên mới của Việt Nam
Với chủ trương đúng đắn, các thể chế phù hợp và sự quyết liệt trong tổ chức triển khai công việc đã mang lại các kết quả tích cực trong thời gian vừa qua. Điều này được thể hiện trên một số khía cạnh chính đã được đề cập trong nội hàm kỷ nguyên vươn mình do Tổng bí thư Tô Lâm và Đảng ta khởi xướng.
Về chủ trương tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế. Với chỉ đạo quyết liệt của Tổng bí thư, Trung ương Đảng và Chính phủ chúng ta đã đạt được nhiều kết quả: giảm nhiều đầu mối của các cơ quan trung ương và địa phương (giảm 5 bộ, cơ quan ngang bộ so với trước và hiện còn 14 bộ, 3 cơ quan ngang bộ, đồng thời giảm 3 cơ quan thuộc chính phủ). Đối với các địa phương ngoài sáp nhập các cơ quan sở, ban, ngành thược tỉnh ủy, UBND theo mô hình của cơ quan trung ương, cuộc cách mạng bộ máy đã triển khai hiệu quả định hình sự phát triển mới cho Việt Nam khi sáp nhập từ 63 tỉnh/Thành phố còn 34 tỉnh/ thành phố hiện nay. Việc chia lại vùng kinh tế - xã hội cũng đã tạo ra thể chế với dư địa, không gian phát triển mới.
Về thực hiện chính quyền địa phương hai cấp. Nhiều ưu điểm được thể hiện khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp như: giảm khâu trung gian xỏa bỏ 100% đơn vị hành chính cấp quận, huyện, phân định rành mạch chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan cấp tỉnh và cấp xã; Loại bỏ tình trạng vừa quản lý vừa xin ý kiến giữa ba cấp như trước đây giữa tỉnh-huyện-xã. Tăng tính chủ động, gần dân hơn và từng bước nâng cao chất lượng phục vụ. Hình thành đơn vị hành chính đủ quy mô, dư địa, tiềm lực để phục vụ phát triển. Nhìn chung với quyết tâm chính trị và sự quyết liệt của hệ thống chính trị, trong một thời gian ngắn, việc sắp xếp thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp đã cơ bản hoàn thành, nhanh chóng triển khai phục vụ tốt nhất người dân, doanh nghiệp.
Về hoàn thiện các thể chế chính sách tạo đà bứt phá, phát triển: hoàn thiện thể chế trụ cột phát triển qua các Nghị quyết, Hoàn thiện và sửa đổi hiến pháp, luật với một khối lượng khổng lồ. Như đề cập ở phần trên, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết đồng bộ, tạo thể chế chính sách thống nhất, đủ bao quát góp phần hiện thực hóa mục tiêu, phương hướng, tầm nhìn của kỷ nguyên phát triển mới. Quốc hội đã hoàn thiện, bổ sung thông qua nhiều dự án Luật tạo thể chế thống nhất từ chủ trương đến văn bản quy phạm pháp luật. Để cụ thể hóa nghị quyết vào cuộc sống, Chỉnh phủ và các địa phương đã ban hành các văn bản, chương trình, kế hoạch hành động, văn bản dưới luật để cụ thể hóa nội dung nghị quyết.
Về công tác chuyển đổi số, dữ liệu dân cư đồng bộ, nâng cao tính liên thông trong quản trị hành chính, giảm thiểu. Việt Nam đã xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư do Bộ Công an quản lý. Công dân được gắn mã định danh cá nhân duy nhất. Dữ liệu được chuẩn hóa, kết nối, chia sẻ với các bộ, ngành, địa phương, cùng 4 cơ sở dữ liệu quốc gia khác (bảo hiểm, tài chính, đăng ký kinh doanh, đất đai…). Với dữ liệu trên cho phép xác thực điện tử nhanh chóng khi thực hiện dịch vụ công, giao dịch ngân hàng, y tế, bảo hiểm xã hội, v.v. Giúp giảm mạnh giấy tờ, thời gian và chi phí hành chính. Bên cạnh đó, 100% bộ, ngành, địa phương có nền tảng quản lý văn bản điện tử, chữ ký số chuyên dụng và hệ thống dịch vụ công quốc gia cung cấp hơn 5.000 thủ tục trực tuyến, trong đó gần 70% dịch vụ công mức độ 4. Đây mới chỉ là kết quả bước đầu xong là nền tảng quan trọng cho việc đồng bộ trong quản trị quốc gia trong kỷ nguyên số.
Về cởi trói, tháo gỡ nhiều dự án, công trình “treo” để giải phóng sức sản xuất, phát huy, tránh lãng phí nguồn lực quốc gia. Trong thời gian vừa qua với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tổng bí thư Tô Lâm cùng Đảng, Chính phủ đã thúc đẩy các bộ, ngành và chính quyền địa phương rà soát các dự án ‘treo’’ nhiều năm chưa triển khai nhằm tìm phương án tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thủ tục. Đồng thời kết nối dữ liệu giữa đất đai, quy hoạch, cấp phép xây dựng. Thực hiện thủ tục trực tuyến để doanh nghiệp và nhà đầu tư dễ thực hiện và theo dõi tiến độ.
Như vậy, với những kết quả ban đầu, việc triển khai quyết liệt chủ trương, chính sách để thúc đẩy việc từng bước chuẩn bị các điều kiện bước vào kỷ nguyên mới của đân tộc Việt Nam do Đảng ta và Tổng bí thư Tô lâm khởi xướng và thúc đẩy đã cho thấy những tín hiệu khả quan, kết quả ban đầu.
Tư duy, hành động của một nhà nghiên cứu khoa học xã hội trước “lời hiệu triệu non song” do Đảng ta và Tổng bí thư Tô Lâm khởi xướng!
Với vai trò là một nhà nghiên cứu khoa học xã hội, tôi có may mắn và dịp được đi, khảo sát và biết được hầu hết các vùng miền, địa phương của Việt Nam, cho tôi cơ hội được cảm nhận một cách khá đầy đủ về một Việt Nam đương đại hiện hữu. Việt Nam cần bước tiếp những bước đi từ truyền thống hào hùng cội nguồn của dân tộc với mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước; Từ những trang sử hùng tráng với 80 năm cách mạng tháng 8, quốc khánh 2/9; Từ hào khí 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và từ những thành tựu của gần 40 năm đổi mới, phát triển đất nước. Tôi nhận thấy rằng đây là thời khắc lịch sử cần có sự chuẩn bị để Việt Nam bước tiếp một trang sử mới, một kỷ nguyên phát triển mới đầy hào hùng, thịnh vượng, một chủ trương đúng đắn có tình thời đại được Tổng bí thư Tô Lâm và Đảng ta khởi xướng hợp với ý Đảng, lòng dân. Đây là lời hiệu triệu của nước non!
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng và những giá trị thời đài của chủ trương, định hướng trên, trong phạm vi là một nhà nghiên cứu khoa học xã hội, đồng thời tham gia công tác quản lý một cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tại vùng Nam Bộ - Một vùng có nhiều hướng đi và hành động tiên phong, năng động, sáng tạo trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với cực tăng trưởng là Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ, Tôi nhận thức rõ trách nhiệm gắn với vị trí, vai trò đồng thời là một công dân của nước Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay những nội dung kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam và nhiều phát biểu chỉ đạo quyết liệt của Tổng bí thư trong thời gian vừa qua, cho tôi thấy sự tâm huyết, tâm, tầm, trí tuệ của người lãnh đạo tối cao của Đảng đã mang lại một “luồng hào khí” và một niềm tin về một Việt Nam hùng cường, phát triển thịnh vượng đang hiện hữu.
Để góp phần nhỏ bé vào việc hướng đến hiện thực hóa mục tiêu, chủ trương của Đảng và Tổng bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên vươn mình phát triển mới của dân tộc, Tôi cùng các đồng nghiệp trong và ngoài Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ đã tiến hành nhiều hoạt động, trong đó cần chú ý công tác nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay cần:
Tư duy nghiên cứu cần được nâng lên: không chỉ nhìn vào “vươn mình” như khát vọng mà phải phân tích sâu các điều kiện lịch sử-xã hội: nguồn lực nội tại (nhân lực, văn hoá, thể chế), thuận lợi và thách thức bên ngoài (hội nhập quốc tế, công nghệ số, biến đổi môi trường). Nghiên cứu phải đi từ “vĩ mô” đến “vi mô”, từ chiến lược đến chính sách cụ thể. Nhiều hoạt động hội thảo, tọa đàm và nghiên cứu của Viện đã góp phần tư vấn chính sách cung cấp luận cứ khoa học cho các Đoàn đại biểu quốc hội các địa phương, các ban,bộ ngành trong một số vấn đề gắn với phạm vi nghiên cứu của Viện như: Báo cáo tư vấn về chính quyền địa phương hai cấp: kinh nghiệm quốc tế và kiến giải cho Việt Nam; Báo cáo các giải pháp thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68 của Bộ chính trị về phát triển kinh tế tư nhân,.. Hoạt động nghiên cứu tư vấn này rất kịp thời trong giai đoạn triển khai hiệu quả Nghị quyết – một trong những trụ cột thể chế quan trọng của Đảng ta để hiện thực hóa mục tiêu, tầm nhìn và nội dung của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
PGS.TS Vũ Tuấn Hưng, Viện trưởng Viện KHXH vùng Nam Bộ phát biểu tại Hội thảo: Giải pháp thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68.
Hành động nghiên cứu gắn liền với thực tiễn: Các nhà khoa học xã hội cần tham gia tích cực hơn vào việc phân tích các nghị quyết, đề xuất cơ chế, đánh giá tác động chính sách, phản biện xã hội, đồng thời biến kết quả nghiên cứu thành các khuyến nghị thực hành. Việc này giúp đảm bảo rằng chủ trương không chỉ nằm trên văn bản mà được triển khai hiệu quả. Một số hội thảo khoa học về Nghị quyết 68, Nghị quyết 57, Chính quyền địa phương hai cấp, các bài viết hiến kế cho việc tổ chức các mô hình quỹ khoa học công nghệ để tạo sự bứt phá trong công tác quản lý về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiệu quả đã được đăng trên các báo Nhân dân, Thanh niên,..
Cần đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ và thúc đẩy mạnh mẽ hơn hợp tác liên ngành: Kỷ nguyên vươn mình đặt ra nhiều thách thức đa chiều – kinh tế, xã hội, văn hoá, môi trường, công nghệ… vì vậy nhà nghiên cứu xã hội không thể đứng riêng lẻ mà cần hợp tác với chuyên gia công nghệ, môi trường, kinh tế, chính trị; sử dụng các phương pháp mới: phân tích dữ liệu lớn, mô hình hóa, nghiên cứu hành vi, khảo sát thực địa. Khảo sát toàn quốc về dân số của nhóm nghiên cứu của Viện do Tôi làm trưởng nhóm trong thời gian vừa qua là thể hiện việc ứng dụng công nghệ và nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội phục vụ hiệu quả công tác hoàn thiện dự thảo Luật dân số và tư vấn chính sách cho Đảng,Nhà nước trong chuẩn bị nguồn nhân lực cho phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình.
Quán triệt tính quyết tâm, liên tục và bền vững: Vươn mình không phải là một cú bật lên rồi dừng lại mà là một quá trình nỗ lực không ngừng nghỉ, cần có tinh thần vượt khó, vượt qua thách thức quyết tâm đạt được mục tiêu chiến lược cho dân tộc. Nhà nghiên cứu cần theo dõi chuyển động dài hạn, đánh giá thường xuyên và cảnh báo những nguy cơ: mất cân bằng vùng miền, gia tăng bất bình đẳng, môi trường bị tác động, công nghệ bị phụ thuộc ngoại nhập…đồng thời nghiên cứu các cơ hội, thời cơ, khuyến nghị các giải pháp, đề xuất các kiến nghị để Đảng, Nhà nước và các địa phương có những phương án, chương trình, kế hoạch thực hiện hiệu quả chủ trương, định hướng hiện thực hóa kỷ nguyên vươn mình phát triển mới của dân tộc Việt Nam.
Cuối cùng, tư cách và trách nhiệm cá nhân: Nhà nghiên cứu xã hội phải là người có vai trò tiên phong, dẫn dắt trong đổi mới tư duy, nắm vững lý luận – thực tiễn, giữ lập trường khoa học – cách mạng, trung thành với lợi ích quốc gia – dân tộc và gắn kết với nhân dân. Trách nhiệm không chỉ là viết bài, đề xuất chính sách mà là đồng hành cùng triển khai, giám sát và phản hồi, cùng lắng nghe, cùng sâu sát với thực tiễn hoạt động của bộ máy chính quyền, doanh nghiệp, người dân để khảo cứu, phân tích, đánh giá những tích cực, hạn chế và nguyên nhân để đề xuất các kiến nghị, giải pháp có tính thiết thực, thực hiện khả thi hiệu quả. Với ý chí quyết tâm, với trí tuệ và khát vọng cống hiến vì một Việt Nam thịnh vượng, phát triển hùng cường để chung tay góp sức cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân hiện thực hóa kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, chủ trương mở ra kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là một dấu mốc chiến lược quan trọng. Đối với nhà nghiên cứu khoa học xã hội, đây vừa là cơ hội lớn để đóng góp trí tuệ, vừa là thách thức lớn về tư duy, phương pháp và hành động khoa học. Nếu nghiên cứu được kết nối chặt chẽ với thực tiễn, định hướng rõ ràng, triển khai đồng bộ và bền vững thì kỷ nguyên này có thể thực sự trở thành thời kỳ “vươn mình, bứt phá” của dân tộc. Dù bạn là ai, bạn đang ở đâu, công tác trong lĩnh vực nào? Hễ là người Việt Nam - Hãy đoàn kết, chung tay, góp sức, đồng lòng vì một Việt Nam phát triển và hiện thực hóa “kỷ nguyên vươn mình phát triển mới của dân tộc Việt Nam”- một chủ trương của Đảng và Tổng Bí thư Tô Lâm khởi xướng. Đây là khát vọng, là sự hun đúc, kết tinh của tinh thần trí tuệ Việt. Nếu khát vọng ấy được hiện thực hóa, dân tộc Việt Nam hoàn toàn có thể bước vào thời kỳ phát triển cực thịnh – một kỷ nguyên mà: “Việt Nam không chỉ là quốc gia độc lập, mà là quốc gia hùng cường; không chỉ có quá khứ hào hùng, mà còn có tương lai rạng rỡ”.
PGS.TS Vũ Tuấn Hưng
Bí thư Đảng ủy, Viện trưởng Viện KHXH vùng Nam Bộ (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
Đồng Chủ tịch Liên minh các Cơ quan nghiên cứu Đồng bằng sông Cửu Long